• Thứ 6, 29/03/2024
  • (GMT+7)

Khảo sát sự tương quan giữa sa trực tràng dạng túi với các bệnh lý sàn chậu thường gặp khác

Investigation of the relationship between rectocele and other pelvic floor disorders

SUMMARY

Background - Objectives: Pelvic floor dysfunction and prolapse are common condition of women past the middle age, with nonspecific clinical symptoms. Many cases of rectocele occurs combine with other pelvic floor disorders. Failure to recognize the complex set of pelvic floor defects leads to most therapy failures. The aim of this study is order to evaluate the correlations between age, number of birth and rectocele, and to define the role of dynamic magnetic resonance defecography in diagnosis.

Methods: Cross-study description. Patients with pelvic floor dysfunction had done clinical examinations and they were indicated dynamic MR Defecography at University Medical Center, HCM City by urologist or gynecologist and proctologist.

Results: MR Defecography of 1683 patients was evaluated from 01/2008 to 6/2012. Most patients are about 40 to 50 years old with 2 to 3 parity. 1218 patients with incontinence; 1311 patients (77.9%) has rectocele. Prolapse of the posterior compartment is the most common type of prolapse. Rectocele combines with more than one pelvic organ prolapse 77.4%; 64.2% of the patients with anismus had rectocele. There are statistically significant in the correlation of age, the number of birth with rectocele or pelvic organ prolapse (OR # 1.04-2.67 and p<0.005). Risk of rectocele was higher in the patients with pelvic organ prolapse than in the patients without pelvic organ prolapse (p<0.005).

Conclusions: Complex pelvic floor disorders often involve several compartments. Dynamic MR Defecography allows evaluating the both morphological and functional assessment of the pelvic floor, selecting the most appropriate treatment.

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Rối loạn chức năng và sa các tạng vùng chậu thường gặp ở phụ nữ tuổi trung niên với triệu chứng lâm sàng không đặc hiệu. Trong nhiều trường hợp, sa trực tràng dạng túi (STTDT) thường kết hợp với các bệnh lý sàn chậu khác. Việc bỏ sót hoặc không nhận ra được tổn thương của sàn chậu là một tập hợp phức tạp thì dễ dẫn đến thất bại trong việc điều trị. Nghiên cứu này nhằm khảo sát các mối tương quan giữa tuổi, số con và STTDT cũng như khẳng định vai trò chẩn đoán bệnh của cộng hưởng từ động sàn chậu.

Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. Các bệnh nhân có biểu hiện rối loạn chức năng sàn chậu được khám và chỉ định chụp cộng hưởng từ động tại Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM bởi những bác sĩ chuyên khoa hậu môn trực tràng, tiết niệu và phụ khoa.

Kết quả: Có 1683 bệnh nhân trong nghiên cứu từ tháng 01/2008 đến tháng 06/2012. Nữ tuổi 40-50 và có 2-3 con chiếm đa số. 1218 bệnh nhân có biểu hiện rối loạn đại tiện. 1311 trường hợp (77,9%) có STTDT. Bất thường sa khoang chậu sau chiếm tỉ lệ cao nhất. Tỉ lệ có STTDT kèm sa nhiều hơn một khoang chậu là 74.4% và trong nhóm bệnh lý co thắt cơ mu trực tràng là 64,2%.

Mối liên quan giữa tuổi, số con với STTDT hay sa các khoang chậu đều có ý nghĩa về mặt thống kê với OR # 1,04 - 2,67 (p<0,005). Nguy cơ có STTDT trong các nhóm có sa tạng chậu cũng cao hơn nhóm không có sa tạng chậu (p<0,005).

Kết luận: Bệnh lý sàn chậu thường phức tạp, liên quan đến nhiều khoang chậu. Cộng hưởng từ động sàn chậu cho phép chẩn đoán các bất thường về hình thái và chức năng vùng chậu, giúp chọn lựa kế hoạch điều trị thích hợp nhất.

Tác giả: Võ Tấn Đức

Địa chỉ: Bộ môn Chẩn đoán hình ảnh – Đại học Y dược TP.HCM

Theo tạp chí điện quang Việt Nam số 15 - 4/2014

(0)

Đăng nhập | Đăng ký

Bình luận

Đang tải dữ liệu loading

Đơn vị hợp tác