• Thứ 6, 26/04/2024
  • (GMT+7)

Các dấu hiệu chụp cắt lớp vi tính chẩn đoán thiếu máu và hoại tử ruột ở tắc ruột non quai kín

CT findings for diagnosis of bowel ischemia and necrosis in closed-loop small-bowel obstruction

SUMMARY

Purpose: The aim of this study was to investigate the imaging features of contrast-enhanced CT (CECT) to diagnosis for bowel ischemiaand necrosis in closed-loop small-bowel obstruction

Materials and Methods: Thirty-three patients with CL-SBO confirmed by laparotomy. Based on the surgical findings, these patients were classified into three groups: necrosis group (n = 9), ischemia without necrosis group (n = 12), and no-ischemia group (n = 12). Two blinded radiologists retrospectively reviewed CECT including multiplanar reconstruction images and evaluated 11 CT findings. The sensitivity and specificity of each finding were compared among the three groups, and logistic regression analysis was performed. Results:Reduced bowel- wall enhancement, reduced enhancement of the mesenteric veins showed high specificities of 92%, 96% and sensitivities of 62% and 78%, respectively, for the prediction of bowel necrosis in CL-SBO. The target sign in the ischemia group were 83% and 76%, respectively, for sensitivities and specificities, compared with 22% and 46% of the necrosis group. We have included the data in a univariate and multivariate logistic regression analysis, but there is no correlation between imaging features and surgical findings. This can be explained by the interval between CT and laparotomy has altered bowel conditions.

Conclusions: In our prospective patients, reduced enhancements of bowel wall and mesenteric veins were good indicators of bowel necrosis. On the contrary, target sign was a predictor of a viable bowel.

Key words: intestinal obstruction, closed loop, ischemia, necrosis, computed tomography.

TÓM TẮT

Mục đích: mục đích của nghiên cứu này là để tìm ra các dấu hiệu hình ảnh trên chụp cắt lớp vi tính (CCLVT) có tiêm tương phản để chẩn đoán thiếu máu và/hay hoại tử ruột ở tắc ruột non quai kín, nhằm dự đoán sự cần thiết của cắt bỏ ruột hay bảo tồn.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 33 bệnh nhân với TRNQK được xác định bằng phẫu thuật. Dựa trên những dấu hiệu phẫu thuật, bệnh nhân được chia thành ba nhóm: nhóm hoại tử (n=9), nhóm thiếu máu không có hoại tử (n=12) và nhóm không thiếu máu (n=12). Hai bác sĩ chẩn đoán hình ảnh không biết trước kết quả phẫu thuật xem xét lại phim CCLVT có thuốc tương phản bao gồm tái tạo đa mặt phẳng và đánh giá 11 dấu hiệu CLVT.Độ nhạy và độ đặc hiệu của mỗi dẫu hiệu được so sánh giữa ba nhóm, và phân tích hồi quy được thực hiện. Kết quả: giảm tăng quang thành ruột, giảm tăng quang của các tĩnh mạch mạc treo cho thấy độ đặc hiệu cao 92%, 96% và độ nhạy 62% và 78%, tương ứng, để tiên đoán hoại tử ruột trong TRNQK. Dấu hình bia ở nhóm thiếu máu ruột cho độ nhạy và độ đặc hiệu tương ứng là 83% và 76% so với 22% và 46% ở nhóm hoại tử ruột. Chúng tôi đã đưa các dữ liệu vào phân tích hồi quy đơn biến và đa biến, tuy nhiên không tìm thấy sự tương quan giữa các dấu hiệu hình ảnh và phẫu thuật. điều này có thể được giải thích do thời gian giữa CCLVT và phẫu thuật đã làm thay đổi tình trạng ruột. Kết luận: Ở những bệnh nhân được khảo sát của chúng tôi, sự giảm bắt thuốc thành ruột và các mạch máu mạc treo tương ứng là một dấu hiệu chỉ điểm tốt cho hoại tử ruột, còn dấu “hình bia” là một yếu tố dự báo về một quai ruột thiếu máu có khả năng sống được. Từ khoá: tắc ruột, quai kín, thiếu máu, hoại tử, cắt lớp vi tính.không thiếu máu (n=12). Hai bác sĩ chẩn đoán hình ảnh không biết trước kết quả phẫu thuật xem xét lại phim CCLVT có thuốc tương phản bao gồm tái tạo đa mặt phẳng và đánh giá 11 dấu hiệu CLVT.Độ nhạy và độ đặc hiệu của mỗi dẫu hiệu được so sánh giữa ba nhóm, và phân tích hồi quy được thực hiện.

Kết quả: giảm tăng quang thành ruột, giảm tăng quang của các tĩnh mạch mạc treo cho thấy độ đặc hiệu cao 92%, 96% và độ nhạy 62% và 78%, tương ứng, để tiên đoán hoại tử ruột trong TRNQK. Dấu hình bia ở nhóm thiếu máu ruột cho độ nhạy và độ đặc hiệu tương ứng là 83% và 76% so với 22% và 46% ở nhóm hoại tử ruột. Chúng tôi đã đưa các dữ liệu vào phân tích hồi quy đơn biến và đa biến, tuy nhiên không tìm thấy sự tương quan giữa các dấu hiệu hình ảnh và phẫu thuật. điều này có thể được giải thích do thời gian giữa CCLVT và phẫu thuật đã làm thay đổi tình trạng ruột.

Kết luận: Ở những bệnh nhân được khảo sát của chúng tôi, sự giảm bắt thuốc thành ruột và các mạch máu mạc treo tương ứng là một dấu hiệu chỉ điểm tốt cho hoại tử ruột, còn dấu “hình bia” là một yếu tố dự báo về một quai ruột thiếu máu có khả năng sống được.

Từ khoá: tắc ruột, quai kín, thiếu máu, hoại tử, cắt lớp vi tính.

Tạp chí điện quang số 34

Vũ Thị Thu Hương, Võ Tấn Đức

(0)

Đăng nhập | Đăng ký

Bình luận

Đang tải dữ liệu loading

Đơn vị hợp tác